Tại hội thảo “Đưa nông sản, thực phẩm chế biến Việt Nam vào hệ thống phân phối nước ngoài”, bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ (Bộ Công Thương) cho biết liên tục trong vài năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và thực phẩm duy trì tốc độ tăng trưởng trên hai con số và đạt 53,2 tỷ USD trong năm 2022, tăng xấp xỉ 10% so với 2021.
Đặc biệt là trong năm 2022, nhiều loại nông sản của nước ta như chuối tươi, khoai lang, tổ yến, bưởi, nhãn, chanh leo, sầu riêng… được cấp phép xuất khẩu sang các thị trường phát triển và có tiêu chuẩn cao trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, New Zealand. Điều này tạo ra cơ hội lớn cho xuất khẩu trái cây.
Năm 2023, bất chấp nhiều khó khăn của thị trường đặc biệt là lạm phát tăng cao ở tất cả các thị trường xuất khẩu chủ lực, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản Việt Nam được dự báo vẫn sẽ vượt qua con số 50 tỷ USD.
Hiện nay Việt Nam là nhà cung ứng trong top 3 thế giới về cà phê, lớn thứ nhất về hạt điều, lớn thứ nhất về hạt tiêu, lớn thứ ba về gạo…
8 tháng năm 2023, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là ba thị trường xuất khẩu lớn nhất của nông sản Việt Nam, chiếm tỷ trọng lần lượt 21,9%, 20,6% và 7,6%.
Mặc dù, các số liệu trên đều cho thấy, ngành nông sản của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích tích cực, nhưng bà Hiền cho rằng thách thức vẫn còn rất lớn, khi phát triển bền vững và bảo vệ môi trường là những xu hướng tất yếu tại hầu khắp các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Điển hình như, giữa tháng 5 vừa qua, EU cũng đã ban hành đạo luật về Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Quy định này buộc các nhà nhập khẩu vào EU phải báo cáo lượng phát thải carbon trong hàng hóa. Cuối tháng 6/2023, EU đã ban hành Quy định Chống suy thoái rừng (EUDR). Theo đó, các công ty kinh doanh gỗ, cà phê, ca cao, cao su, đậu nành, gia súc, dầu cọ và các sản phẩm phái sinh tại EU phải chứng minh hàng hóa mà họ bán không liên quan đến hoạt động phá rừng từ sau năm 2021. Nếu vi phạm sẽ bị phạt tối thiểu 4% doanh số hàng năm thu được trên toàn EU.
Các quy định về bảo vệ môi trường tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như EU, Bắc Mỹ và các thị trường Đông Bắc Á ngày càng chặt chẽ hơn. Chính phủ Hoa Kỳ và Canada cũng đang cân nhắc các cơ chế tương tự CBAM và EUDR của EU. EU cũng nêu rõ các nhóm mặt hàng nằm trong CBAM và EUDR sẽ được mở rộng trong tương lai.
Thậm chí, các quốc gia không chỉ điều chỉnh khung khổ pháp lý của mình với hàng loạt các luật, các quy định mới về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, mà còn lan tỏa đến cả các quốc gia khu vực khác thông qua các cam kết chính trị mạnh mẽ tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) và COP27.
Thừa nhận thực tế này từ góc độ doanh nghiệp, ông Vincent Gothknecht, Trưởng đại diện Công ty I.Schroeder (Đức) nhận định, Việt Nam có lợi thế xuất khẩu nông sản vào EU nhờ EVFTA tuy nhiên, châu Âu là thị trường khó tính với nhiều tiêu chuẩn khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm. Các sản phẩm xuất khẩu vào thị trường này phải có truy xuất nguồn gốc. Cùng với đó là đảm bảo các yêu cầu về tiêu chuẩn về môi trường, lao động.
Với các nhà cung ứng của chúng tôi, chất lượng sản phẩm không còn là vấn đề với nông sản Việt Nam. Nhưng điểm nghẽn mà các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải chủ yếu là yêu cầu về môi trường, việc giảm phát thải, trung hòa carbon…Nhiều nhà mua hàng muốn những nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng của họ phải trung hòa carbon. Do đó, nếu doanh nghiệp Việt Nam không đạt được tiêu chuẩn này sẽ mất cơ hội”, ông Vincent nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn đang gặp khó khăn với các mặt hàng thủy sản đánh bắt. Trong khi đó, tại nhiều quốc gia khác như Philippines… các sản phẩm thủy sản đánh bắt đã có chứng nhận MSC (Marine Stewardship Council – MSC) khai thác bền vững nguồn thủy sản. Do vậy, nhiều doanh nghiệp thủy sản đã mất cơ hội xuất khẩu vào thị trường này.
Cũng theo ông Vincent Gothknecht, muốn xuất khẩu vào EU, sản phẩm phải có chứng nhận an toàn thực phẩm, chứng nhận tiêu chuẩn môi trường, lao động… Để làm được điều này, doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư nguồn lực khá lớn bởi đây là yêu cầu bắt buộc để thâm nhập thị trường.
Đồng quan điểm, ông Trần Minh Thắng, Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, việc tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm là điều kiện tiên quyết để đưa được mặt hàng nông sản, trái cây vào thị trường này. Điều này yêu cầu quá trình canh tác, trồng trọt cần tuân thủ nghiêm túc các quy định và yêu cầu của thị trường nhập khẩu.
Bên cạnh đó, cần cải thiện công nghệ bảo quản sau thu hoạch, đảm bảo tính đồng bộ trong quy trình sơ chế, đóng gói, bảo quản và vận chuyển nhằm soát ổn định được nhiệt độ, độ ẩm lý tưởng cho trái cây.
Cho rằng việc phát triển bền vững chuỗi nông sản, thực phẩm an toàn để đáp ứng nhu cầu và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm là vô cùng quan trọng hiện nay, vì vậy ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, chế biến và phát triển thị trường kiêm Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam nhấn mạnh, đây là yêu cầu cũng như xu hướng buộc doanh nghiệp phải chuyển đổi.
Ngoài vai trò của doanh nghiệp, Nhà nước cần hoàn thiện thể chế chính sách pháp luật, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp thực tiễn và hội nhập.
Đầu tư nguồn lực và cơ chế huy động nguồn lực cho đào tạo quản lý, giám sát, hướng dẫn hỗ trợ đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm ở các khâu từ sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến và kết nối tiêu thụ trong và ngoài nước.
Đồng thời, cập nhật qui định, thông tin phân tích thị trường, thị hiếu tiêu dùng để phát triển sản xuất ra sản phẩm phù hợp. Triển khai các đề án phát triển vùng nguyên liệu; hệ thống logistics theo chuỗi cung ứng nông sản, đảm bảo an toàn thực phẩm, giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao chất lượng nông lâm thuỷ sản.