Tại hội thảo chuyên đề “Nâng cao năng lực sản xuất thông minh và phát triển ngành công nghiệp công nghệ số theo định hướng Make in Việt Nam” trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 năm 2023, ông Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2021-2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

 
Hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ phát triển “Make in Việt Nam”

Hội thảo chuyên đề “Nâng cao năng lực sản xuất thông minh và phát triển ngành công nghiệp công nghệ số theo định hướng Make in Việt Nam” trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 năm 2023

Đồng thời, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; coi chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ông Nguyễn Hồng Sơn cho hay, Nghị quyết số 29 cũng xác định công nghiệp công nghệ số là 1 trong 6 ngành công nghiệp nền tảng, trong đó sản xuất thông minh trên nền tảng mạng 5G là cốt lõi của công nghiệp công nghệ số.

Theo dự báo của Tập đoàn Ericsson, vào năm 2025 khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ thu hút 2/3 nhà sản xuất toàn cầu, trong đó dẫn đầu thuộc về các ngành sản xuất thông minh. Hiện tại, 7 quốc gia trong khu vực gồm Úc, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Philippines, Singapore và Thái Lan đã triển khai sản xuất những thiết bị công nghệ thông minh 5G. Việt Nam cũng được Ericsson đánh giá là một điểm đến hấp dẫn với doanh thu từ công nghiệp 5G ước đạt 1,54 tỷ USD vào năm 2030.

Trong báo cáo công nghiệp hóa trong kỷ nguyên số của UNIDO, Việt Nam được xếp trong nhóm các nền kinh tế tiêu dùng công nghệ số, trong số 40 nền kinh tế chủ động theo đuổi Công nghiệp 4.0. Nhập khẩu thiết bị, công nghệ số của Việt Nam đứng thứ 15, xuất khẩu công nghệ đứng thứ 46 và hoạt động sáng chế đứng thứ 48 trong số 150 nền kinh tế.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, công bố tháng 11/2021, trong công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam 70% sản phẩm được tạo ra sử dụng máy móc do con người điều khiển, 20% được làm thủ công, chỉ 9% sử dụng máy móc được điều khiển bằng máy vi tính và dưới 1% sử dụng công nghệ tiên tiến hơn như rô-bốt, sản xuất đắp lớp 3D.

Hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ phát triển “Make in Việt Nam”

Doanh nghiệp đề xuất chính sách cho doanh nghiệp tiếp cận cơ sở dữ liệu quốc gia với những tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể.

Báo cáo của CSIRO và Bộ Khoa học và Công nghệ, công bố tháng 3/2021 cho thấy, chỉ một phần nhỏ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các hoạt động đổi mới sáng tạo; tỷ lệ doanh nghiệp có R&D trong các ngành sản xuất còn rất thấp như: Ngành sản xuất thiết bị điện 17%, ngành sản xuất hóa chất 15%, ngành sản xuất chế biến thực phẩm 9%, ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và nhựa 7%, ngành sản xuất da và sản phẩm có liên quan 6%, ngành dệt may 5%.
 
Như vậy, có thể thấy phát triển sản xuất thông minh ở Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội khó khăn và thách thức đan xen”, ông Nguyễn Hồng Sơn nhấn mạnh.

Ở  góc nhìn doanh nghiệp, bà Phan Thị Thanh Ngọc, Giám đốc tư vấn chuyển đổi số, Công ty công nghệ thông tin VNPT-IT cho biết, công nghiệp công nghệ số là điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam với doanh thu ước đạt 148 tỷ USD, tăng trưởng hơn 10% so với 2021. Số lượng doanh nghiệp hơn 70.000. Xuất khẩu của ngành công nghệ số ước đạt 136 tỷ USD theo số liệu Bộ TT&TT.

Do đó, làm rõ nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2021 – 2030, doanh nghiệp đề xuất cần chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp công nghệ số Make in Việt Nam. Chính sách kiểm soát chất lượng sản phẩm dịch vụ công nghệ số Make in Việt Nam, xúc tiến, thúc đẩy nhu cầu cũng như thu hút vốn đầu tư FDI và Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ số.

Trong khi đó, bà Đinh Thị Thúy, Tổng Giám đốc Công ty CP MISA cho rằng, để hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển công nghệ số Make in Việt Nam, Chính phủ cần giúp các doanh nghiệp có thể kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia.

Hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ phát triển “Make in Việt Nam”

Đề nghị cho phép doanh nghiệp kết nối với cơ sở dữ liệu này theo quy chuẩn, tiêu chuẩn nào đó, giúp tận dụng các dữ liệu sẵn có trên hệ thống.

“Trách nhiệm xây dựng kết nối, liên thông cơ sở dữ liệu quốc gia là của bộ, ngành trung ương, của đơn vị trung gian kết nối và đơn vị tham gia sử dụng. Do đó đề nghị cho phép doanh nghiệp kết nối với cơ sở dữ liệu này theo quy chuẩn, tiêu chuẩn nào đó, giúp tận dụng các dữ liệu sẵn có trên hệ thống và cung cấp cơ sở khác”, CEO Misa nhấn mạnh.

Đồng thời đề nghị cho phép người dân khi được đáp ứng đủ điều kiện của nhà nước sẽ được khai thác dữ liệu, nâng cao giá trị chuyển đổi số.

Doanh nghiệp cũng mong muốn rằng các doanh nghiệp công nghệ nhà nước sẽ tập trung vào các giải pháp trọng yếu, các lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân không làm được ví dụ như tạo ra hạ tầng viễn thông tốt hơn, để giúp doanh nghiệp công nghệ tư nhân có cơ hội phát triển.

Đặc biệt, đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước, bộ, ngành tập trung xây dựng thể chế chính sách cùng các tiêu chí tiêu chuẩn cho doanh nghiệp công nghệ.