Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, 5 tháng đầu năm nay, sản lượng ô tô xuất xưởng tại Việt Nam đạt 115.900 chiếc, giảm so với 133.600 chiếc cùng kỳ năm 2023 và giảm mạnh so với con số 190.500 chiếc của cùng kỳ năm 2022. Điều đáng buồn là sản lượng đạt 115.900 chiếc nhưng doanh số bán chỉ đạt khoảng 83.000 chiếc, dư thừa hơn 30.000 chiếc các loại.
Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, ô tô nhập khẩu nguyên chiếc 5 tháng đầu năm đạt 58.716 chiếc, tiêu thụ đạt 53.442 chiếc. Nếu trước đây doanh số bán ô tô sản xuất lắp ráp trong nước thường cao gấp 2 lần xe nhập khẩu nguyên chiếc thì nay khoảng cách đang thu hẹp dần. Chiếm khoảng 80% trong số này là xe du lịch dưới 10 chỗ ngồi. Indonesia và Thái Lan là 2 thị trường cung cấp ô tô nguyên chiếc lớn nhất cho Việt Nam, với khoảng 70% tổng số xe nhập khẩu.
Việt Nam đã ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA cam kết đưa thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc về 0%. Điển hình là Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), thuế suất nhập khẩu ô tô đã giảm về 0% từ năm 2018. Theo Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), ngay sau khi cam kết bỏ thuế suất nhập khẩu ô tô từ ASEAN, nhiều sản phẩm sản xuất trong nước đã không cạnh tranh nổi với sản phẩm đến từ các quốc gia như Thái Lan và Indonesia. Do có chi phí sản xuất thấp hơn 20%, lại được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu 0% nên xe từ Indonesia, Thái Lan ngày càng tràn vào Việt Nam nhiều.
Giương “cờ trắng”?
Từ lâu đã có cảnh báo ô tô sản xuất lắp ráp trong nước sẽ mất lợi thế trước xe nhập khẩu và ngày càng thu hẹp về quy mô, sản lượng… Xu hướng này đang diễn ra rõ ràng hơn.
Theo cam kết tại các Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA), với Vương quốc Anh (UKVFTA)… thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ khu vực này về Việt Nam giảm khoảng 6,4%/năm liên tục trong vòng 10 năm, tới năm 2030 sẽ về 0%. Đây cũng là khu vực nhập khẩu nhiều ô tô của Việt Nam, sức ép từ xe nhập khẩu có chất lượng, công nghệ cao, giá cạnh tranh… tiếp tục đè nặng lên xe sản xuất lắp ráp trong nước.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, ngành công nghiệp ô tô muốn phát triển phải dựa trên quy mô và sản lượng lớn. Quy mô và sản lượng càng lớn sẽ càng hiệu quả và ngược lại. Muốn ngành công nghiệp ô tô đạt sản lượng lớn, trong khi thu nhập của người dân còn thấp, phải có các chính sách hợp lý thúc đẩy tiêu dùng. Tuy nhiên, nhiều năm qua với việc áp dụng chính sách thuế, phí cao, đẩy giá xe “lên trời”, xa tầm với của đa số người dân. Vì vậy, thị trường ô tô Việt Nam chỉ đạt quy mô nhỏ bé, sản lượng riêng của từng mẫu xe sản xuất lắp ráp trong nước thấp, ngành công nghiệp ô tô khó phát triển.
Theo TS. Lê Huy Khôi, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương (Bộ Công Thương), với GDP bình quân đầu người hiện nay đạt 4.000 USD và tiếp tục tăng lên, thời kỳ “ô tô hóa” đang đến. Theo dự báo của Bộ Công Thương, thị trường ô tô Việt Nam sẽ đạt quy mô 1 triệu xe vào năm 2030 và từ 1,5 – 1,8 triệu xe sau năm 2035. Đây là “cơ hội vàng” cho ngành công nghiệp ô tô phát triển.
Tuy nhiên, nhìn lại ngành công nghiệp ô tô trong nước, sau 30 năm phát triển, đến nay vẫn rất non yếu và ngày càng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, khó có khả năng đón bắt được cơ hội này. “Cơ hội vàng” đang chuyển sang cho ô tô nhập khẩu nguyên chiếc.