Tượng Lê Quý Đôn tại Bảo tàng Văn học VN Ảnh: Bảo tàng Văn học VN
Đóng góp lớn nhất của Lê Quý Đôn vào việc gìn giữ di sản văn học trung đại là công trình biên soạn đồ sộ Toàn Việt Thi Lục (6 quyển) bao gồm 897 bài thơ của 73 tác giả VN từ thế kỷ X đến thế kỷ XVI. Con số ấn tượng như vậy cho thấy công phu và tâm huyết của nhà bác học trong việc sưu tầm di sản văn học nước nhà vốn bị thất tán nghiêm trọng. Tác phẩm mang lại cái nhìn toàn diện về sự phát triển của thơ ca chữ Hán VN trong một giai đoạn dài, là nguồn tư liệu vô giá giúp các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về xu hướng sáng tác, phong cách thi ca, tư tưởng thẩm mỹ của thi nhân qua từng thời kỳ.
Trong lĩnh vực triết học và văn học, ông có những công trình nghiên cứu sâu sắc như Thư kinh diễn nghĩa, Dịch kinh phu thuyết, Quần thư khảo biện. Ngoài các trước tác nói trên, trong các tập sách Đại Việt thông Sử, Bắc sứ thông lục, Quốc triều tục biên... chứa nguồn tài liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa VN.
Lê Quý Đôn không chỉ uyên bác trong khảo cứu mà còn để lại di sản trước tác thơ văn đáng kể, chủ yếu được tập hợp trong Quế Đường Thi Tập và Quế Đường Văn Tập. Thơ của ông được đánh giá là "cốt cách trong sáng, lời văn hồn nhiên, trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia" (Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí). Sáng tác văn chương của Lê Quý Đôn mang đậm tính trữ tình, phản ánh những chiêm nghiệm sâu sắc về đời sống, thế sự, và cả cảm xúc cá nhân khi đi sứ hay khi chứng kiến cảnh biến động xã hội, bên cạnh việc thể hiện sự am hiểu sâu rộng về kinh điển và lịch sử.
Quế Đường Thi Tập (桂堂詩集) là một sưu tập quan trọng, tập hợp các sáng tác của Lê Quý Đôn trong thời gian làm quan, chủ yếu viết bằng thể thất ngôn bát cú Đường luật, với bút pháp điêu luyện, ý tứ sâu sắc, thâm trầm. Những bài thơ xướng họa giữa đoàn sứ bộ Đại Việt mà Lê Quý Đôn tham gia (với tư cách Phó sứ) và đoàn sứ thần Triều Tiên (Hồng Khải Hy, Triệu Vinh Tiến, Lý Huy Trung) tại Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) chiếm vị trí quan trọng trong sưu tập này.
Tri thức bách khoa, tư duy khoa học và tôn trọng thực tiễn
Đọc lại trước tác của Lê Quý Đôn không khó để nhận ra khối kiến thức rộng lớn, bao quát nhiều vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội. Ông không chỉ am hiểu sâu sắc về lịch sử, phong tục tập quán của đất nước mà còn thể hiện tư tưởng cải cách, mong muốn mang lại lợi ích cho nhân dân thông qua các đề xuất về pháp chế, thuế khóa, khuyến khích khai hoang.
Một trang trong sách Phủ Biên Tạp Lục Ảnh: T.L
Trong các tác phẩm khảo cứu, Lê Quý Đôn luôn thể hiện tư duy hệ thống, biết cách tổng hợp, chú giải và bình giảng các kinh điển cổ thư một cách sâu sắc. Ông là một trong những người đi đầu trong tư tưởng "thực học", nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, đồng thời phê phán lối học "tầm chương trích cú", đề cao tinh thần tự học và sáng tạo.
Lê Quý Đôn không chỉ dựa vào tri thức sách vở mà còn kết hợp chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống. Ông đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều và ghi chép lại một cách tỉ mỉ, thể hiện phương pháp "thực chứng" và tinh thần học hỏi không ngừng nghỉ. Chính nhờ kiến thức uyên bác, bao quát trên nhiều phương diện mà Lê Quý Đôn đã trở thành tấm gương sáng về tinh thần học tập, nghiên cứu, một nhà bác học vĩ đại của dân tộc.
Các tác phẩm khảo cứu của ông bao quát gần như toàn bộ tri thức tự nhiên và xã hội thế kỷ XVIII của VN. Đây chính là kho tàng tư liệu vô giá về địa lý, lịch sử, kinh tế, và văn hóa, giúp hậu thế hiểu rõ hơn về cha ông trong quá khứ, đồng thời góp phần thể hiện giá trị sáng ngời của nền văn hiến VN. (còn tiếp)









.jpg)



