Việt Nam là một trong những quốc gia có hàng hóa nông sản xuất khẩu lớn vào EU đang phải chịu “áp lực” từ quy định EUDR. Do đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý cần gấp rút nghiên cứu, chủ động xây dựng và ban hành các chính sách quản lý, điều hành, kiểm soát phù hợp.

EUDR - rào cản cho doanh nghiệp gỗ: Chính sách mở đường

Kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang EU. Nguồn: Tổng cục Hải quan

Với Quy định chống mất rừng (EUDR), EU cấm lưu thông các sản phẩm hàng hóa gây mất rừng và suy thoái rừng tại thị trường khu vực này. Phạm vi áp dụng EUDR điều chỉnh 7 nhóm hàng nông- lâm sản có rủi ro cao làm mất rừng, bao gồm dầu cọ, đậu nành, gỗ, ca- cao, cà- phê, gia súc và cao- su.

Truy xuất khó khăn

Ngoài ra, các sản phẩm dẫn xuất được sản xuất, chế biến từ các mặt hàng kể trên như da thuộc, hóa chất làm từ dầu cọ, bột giấy và giấy, các loại ván gỗ nhân tạo, đồ nội thất và các sản phẩm gỗ khác cũng chịu sự điều chỉnh của EUDR.

Theo yêu cầu của EUDR, ba sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chính của Việt Nam là cao-su, cà- phê, sản phẩm gỗ đang có rất nhiều ràng buộc cần tháo gỡ, đòi hỏi phải có thời gian, nguồn lực về cơ chế chính sách và tài chính để đáp ứng kịp thời…

Đáng lưu ý, để chứng minh sản phẩm thỏa mãn cả hai điều kiện không gây mất rừng và hợp pháp, trước khi đưa sản phẩm vào lưu thông tại thị trường EU, doanh nghiệp xuất khẩu cần nộp bản cam kết thẩm định chuỗi cung và sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ thông tin trong cam kết này. Ðể cung cấp thông tin trong cam kết, doanh nghiệp cần thực hiện các bước, thu thập thông tin, đánh giá rủi ro, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ báo cáo khi cần.

Riêng bước thu thập thông tin, doanh nghiệp cần thu thập các dữ liệu liên quan đến sản phẩm sản xuất trên các diện tích đất không liên quan tới mất rừng hoặc suy thoái rừng, tính từ thời điểm 31/12/2020 về sau.

Thống nhất quy định

Mặc dù theo Giám đốc điều hành Chương trình chính sách, thương mại và tài chính tổ chức Forest Trends Việt Nam, Tô Xuân Phúc, Chính phủ Việt Nam đang thực hiện chính sách đóng cửa rừng tự nhiên. Các diện tích mới chuyển đổi từ các diện tích rừng tự nhiên sang rừng trồng, cà- phê, cao- su chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Do đó, đối chiếu với quy định của EUDR, nhìn chung ba ngành hàng này ít có nguy cơ bị xếp vào nhóm rủi ro do diện tích sản xuất đã ổn định từ trước năm 2020.

Tuy nhiên trên thực tế, để chứng minh điều này lại đối mặt nhiều thách thức do thiếu bằng chứng pháp lý cần thiết. Chính phủ và các cơ quan quản lý cần gấp rút nghiên cứu, cập nhật các thông tin để chia sẻ với các bên liên quan như hiệp hội, doanh nghiệp và phía EU, nhằm chủ động xây dựng và ban hành các chính sách quản lý, điều hành, kiểm soát phù hợp. Chính phủ cần giao cho bộ, ngành liên quan rà soát chuỗi cung ứng của các ngành hàng gỗ, cà- phê, cao- su để đánh giá rủi ro và khả năng đáp ứng của người sản xuất và doanh nghiệp với yêu cầu của quy định EUDR nhằm tránh gây thiệt hại và rủi ro cho các sản phẩm hàng hóa khi xuất khẩu vào thị trường EU.

Đơn cử như để đẩy mạnh xuất khẩu gỗ và lâm sản sang EU trong thời gian tới, các cơ quan quản lý cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định luật pháp về bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam, trong đó, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 102/2020/NÐ-CP ngày 1/9/2020 của Chính phủ quy định hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam; sửa đổi, bổ sung Thông tư số 26/2022/TT-BNNPTNT ngày 30/12/2022 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản.